Wednesday, July 31, 2013

Nhật Tiến

Nhà văn NHẬT TIẾN : NHẤT LINH năm tháng cuối đời (kỳ 4 )

                      
Giai  Phẩm   VĂN HÓA NGÀY NAY

                   (tiếp theo)

Dịch giả Trương Bảo Sơn sau này góp bài viết trong cuốn “ Nhất Linh, Người Nghệ Sĩ-Người Chiến Sĩ” do Thế Kỷ xuất bản năm 2004, đã nêu nhận xét :
“ Tập Văn Hóa Ngày Nay bán chạy như tôm tươi mấy số đầu, đã bị ế đi. Nhà phát hành độc quyền của chính phủ đã thi hành độc kế không gửi đủ số báo cho các tiệm sách đã đặt mua. Chúng tôi khi buộc báo thành từng bó đã cố ý đánh dấu riêng, khi nhận báo từ nhà phát hành trả về, thấy những dấu ấy vẫn còn y nguyên, tức là nhà phát hành đã không làm đúng nhiệm vụ, đã giữ báo của chúng tôi trong kho, không phân phối đi. Có những tiệm sách đến điều đình mua thẳng báo với chúng tôi để có đủ báo bán, nhưng chúng tôi phải từ chối vì sợ chính quyền gài bẫy. Ðã nghèo lại bị thua lỗ, chúng tôi đành đình bản tờ Văn Hóa Ngày Nay.”
Có thể đấy lý do chính mà tờ Văn Hóa Ngày Nay bị đình bản, nhưng cũng chưa hẳn đó là lý do duy nhất. Dù tờ báo có bị chính quyền cấm cản bằng những thủ đoạn nào thì cũng không thể bỏ qua yếu tố độc giả, là những người cũng đã ít nhiều trực tiếp tham dự vào sự sống còn của một tờ báo. Sau vài số báo, có chăng sự kiện độc giả không còn hứng thú theo dõi VHNN như trước nữa nên báo ế và nhà phát hành có thể đã  kìm hãm những cọc báo không gửi đi các tỉnh cho đỡ tiền cước phí ?
Dẫu sao thì sự sút giảm độc giả hẳn cũng làm nản lòng người chủ trương VHNN. Cũng trong  bài “Người Bác” nói trên, nhà văn Thế Uyên còn cho biết :
“Sau khi Văn Hoá Ngày Nay số 8 phát hành, Nhất Linh tuyên bố với người thân: “Thôi, không làm nữa!”. Bạn bè xúm lại can. Nể người thân, ông chịu để Tường Hùng và Duy Lam tiếp tục. Ra tiếp hai số, ông cương quyết kết liễu Văn Hoá Ngày Nay. “Nó đã làm xong nhiệm vụ!”.
Nếu sự thể đã xẩy ra đúng như vậy thì số báo cuối cùng do Tường Hùng và Duy Lam thực hiện chỉ còn 98 trang kể cả 8 trang quảng cáo, so với số đầu dầy tới 180 trang, tức là về hình thức đã sa sút gần một nửa.
Trong ngót 100 trang của số 11, tức số cuối cùng này, truyện dài Cô Mùi của Nhất Linh chiếm tới 25 trang, tức hơn ¼ số báo, một điều khá kỵ trong kỹ thuật làm báo. Cũng như vậy, truyện ngắn Ả Hầucủa Đỗ Tốn cũng bị chia cắt thành 3 kỳ (khởi đăng từ số 9), cũng làm độc giả bớt hứng thú theo dõi. Cũng trong số này, nhà thơ Bùi Khánh Đản chiếm tới 7 trang Thơ, cũng là một sự thiên vị bất thường. Và theo thông lệ, ngòi bút Duy Lam vẫn giữ vai trò chủ lực. Ông có tới 5 bài, 2 bài bình luận : một về Văn, một về Hội Họa, 3 bài còn lại là văn vui. Tường Hùng chỉ có một bài duy nhất “Kiểu mẫu Thanh Niên”, cũng là văn vui.
Ngoài ra, những sáng tác khác vẫn gồm 4 truyện dài của Nhất Linh, Nguyễn thị Vinh, Linh Bảo và bản dịch truyện của Leon  Tolstoї.


Một số báo như thế báo hiệu sự sa sút rõ rệt về mặt  nội dung, càng là lý do để ta có thể đánh giá mức độ đón nhận của độc giả đối với tờ VHNN ra sao. 
Tuy nhiên, tờ Văn Hóa Ngày Nay đình bản dẫu vì bất cứ lý do nào, kể cả  sự liên đới của nhà văn Nhất Linh đối với vấn đề chính trị lúc đương thời, thì cũng là một điều đáng tiếc  !
Tiếc nhất là VHNN chỉ ra được 11 số nên không còn cơ hội tiếp tục vun trồng và khích lệ những cây bút mới như: Duy Lam, Tường Hùng, Tuyết Hương, Trần Tuấn Kiệt, Lê Tất Điều, Đỗ Phương Khanh, Đặng Phi Bằng.. v.v.. .. và cả chính tôi, Nhật Tiến nữa. Một số người trẻ đã nhờ Văn Hóa Ngày Nay mà có đà để đi được những chặng đường xa hơn.

                                                            ***

Do quen biết với gia đình nhà văn Nguyễn thị Vinh nên sau khi VHNN đình bản, tôi còn có vài cơ hội gặp gỡ nhà văn Nhất Linh ở nhà in Việt Liên, đường Gia Long Sài Gòn do bà Nguyễn thị Vinh làm chủ. Có một buổi gặp gỡ mà mãi sau này trong ký ức của tôi vẫn thấy như là mới mẻ, đó là buổi tối của hôm trước khi xẩy ra cuộc đảo chính ngày 11-11-1960. Nhà tôi, Đỗ Phương Khanh thì đã lên lầu trò chuyện với anh chị Trương Bảo Sơn và Nguyễn thị Vinh. Ở tầng dưới, nhà văn Nhất Linh  ngồi trầm ngâm bên một cái bàn nhỏ, chung quanh đầy những cột ram giấy của nhà in chất cao nghệu.
Thấy tôi, ông mỉm cười và rủ tôi chơi bài domino. Thế là tôi xà vào bên ông, vui vẻ đổ cỗ bài lên mặt bàn và ngắm nhìn ông xếp những con bài nhựa bằng đôi bàn tay đã bắt đầu hơi run run. Có lẽ đấy là lần đầu tiên tôi có cảm giác gần gũi với ông nhất. Bởi vì sự liên hệ giữa tôi và ông lúc này chỉ là hai con người trong một trò giải trí chứ chẳng phải là  giữa một nhà văn vốn đã lừng lẫy trong suốt một chiều dài của lịch sử Văn học Việt  Nam  với một thanh niên mới chỉ có 24 tuổi đời, vừa chập chững đi vào thế giới của văn chương. Tôi nhớ là mình đã “gí” ông tận tình và rất thích thú nhìn đôi lông mày rậm của ông nhíu lại, vầng trán cao ngất phảng phất nhiều nếp nhăn, và mỗi khi phản công lại thì ông mỉm cười, nụ cười nom rất hiền từ và bao dung khiến tôi thấy lòng mình như ấm áp hơn lên.
Trong những giây phút thân ái đó, tôi thật đâu có ngờ là đầu óc của ông lại còn đang suy tưởng về một cuộc đảo chính sắp sửa xẩy ra, chỉ trong vài giờ sau đó !
1 giờ 30 sáng ngày 11-11-1960, tiếng súng bắt đầu rộ lên trong thành phố. Tiếng súng của phe đảo chính !
Cuộc đảo chính mà sau này nhiều người cho là ông không trực tiếp tham dự nhưng biết  trước và có ủng hộ tinh thần. Tôi cũng muốn đồng ý như vậy, bởi vì nếu ông là người có dính líu đến nội vụ thì hẳn tối hôm trước, ông đã chẳng ngồi chơi domino với tôi như thế.  
Thế nhưng một đồng chí của ông, dịch giả Trương Bảo Sơn trong bài “Những kỷ niệm riêng với Nhất Linh Nguyễn Tường Tam” in trong cuốn “Nhất Linh, người chiến sĩ - người nghệ sĩ”, do Thế Kỷ 21 xuất bản năm 2004, thì lại cho biết về việc làm truyền đơn trong biến cố 11-11-1960 này như sau :
          “ Khi thảo truyền đơn, trong danh sách những người ký tên, chúng tôi đã để tên Nguyễn Tường Tam lên đầu, rồi mới tới tên các cụ Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Trần Văn Văn, Nguyễn Xuân Chữ v.v... Ông Tam đã sửa lại để tên ông sau tên ông Chữ. Trước sự ngạc nhiên của tôi, ông giải thích: “Anh đừng quên người ta vẫn nói miền Nam của người Nam, mình là người Bắc di cư, phải lưu tâm và tôn trọng điều đó.”

Mặc dù có liên quan hay không thì ông vẫn bị chính quyền quản thúc tại gia và đưa ra tòa xét xử vào ngày 11-7-1963. Thế nhưng, ngày 7-7-1963 ông đã dùng độc dược quyên sinh vì đời ông, ông chỉ chịu để cho  lịch sử phán xét.
Sự ra đi của ông là một mất mát lớn lao cho văn giới.
Không mất mát lớn lao sao được khi một nhân tài lỗi lạc như thế đã không còn nữa.
Một nhân tài mà quý nam của Nhất Linh, ông Nguyễn Tường Thiết đã tóm gọn một câu về cuộc đời của thân phụ ông trong cuộc phỏng vấn do ký giả Lê Quỳnh Mai thực hiện trên Tạp chí Hợp Lưu số tháng 7 & 8 năm 2008,  như sau :
“Tôi suy nghĩ về toàn thể cuộc đời ông. Từ hồi ông có bài thơ đăng báo Trung Bắc Tân Văn năm ông mới 16 tuổi, cho đến ngày ông mất năm ông 57 tuổi. Ông đã sống một đời lỗi lạc, làm được quá nhiều việc trong một đời ngắn ngủi. Một người bận rộn như thế, nổi tiếng như thế, thì làm gì có được một cuộc sống thanh thản, bình dị, như cuộc đời nơi mỗi chúng ta?”
Và ông Thiết đã kết luận chính xác như đã nói thay cho mọi người rằng  :
“ ...Tôi tin rằng sự nghiệp của cha tôi sẽ trường tồn không phải đơn thuần nhờ vào văn tài của ông mà còn nhờ vào sự ngưỡng mộ và quý trọng về cả con người, cuộc đời và cái chết của ông nữa. ”
Còn riêng đối với tôi, một người cầm bút sau Nhất Linh cả một thế hệ, khi ông mất đi, tôi vừa thấy đã mất một nhà văn lão thành, vừa mất một nguồn khích lệ lớn lao trên con đường văn nghiệp của tôi vì ông đã khuyến khích tôi rất nhiều sau khi đọc xong bản thảo cuốn truyện dài đầu tay của tôi. Rồi ông lại dành chỗ trang trọng để đăng tải những truyện ngắn của tôi trên Văn Hóa Ngày Nay, tờ báo tiếp nối công trình của Phong Hóa và Ngày Nay. Ông cũng lại ân cần giới thiệu tôi vào Trung Tâm Văn Bút, nơi mà tôi đã có dịp được sinh hoạt liên tục trong suốt gần 20 năm sau đó, cho đến khi miền Nam mất vào tay CS. Có thể nói tóm gọn, con đường đi vào thế giới Văn chương Chữ nghĩa của tôi đã có được sự khích lệ của nhà văn Nhất Linh rất nhiều.
Để có cơ hội viết bài này, tôi cũng xin cám ơn nhà văn Phạm Phú Minh và những vị trong ban tổ chức Triển lãm và Hội luận về hai tờ báo Phong Hóa - Ngày Nay. Nếu không có lời mời tham dự của quý vị thì tôi không có dịp ngồi ôn lại những kỷ niệm trong lãnh vực văn chương ở vào thuở khai sinh Việt Nam Cộng Hòa mà khi đó mọi người đã cùng gắng công vun đắp một Miền Nam Tự Do với vô vàn sinh hoạt văn hóa phong phú, đa dạng mà sức lan tỏa vẫn còn cho đến tận ngày nay.
                                                                  
                                                                                     NHẬT TIẾN
                       Garden GroveCalifornia ngày 20 tháng 5 năm 2013
                            (còn nữa)

Nhật Tuấn





LX: được sự đồng ý của nhà văn Nhật tuấn, chúng tôi sẽ lần lượt giói thiệu một tiểu luận văn học của anh có tên là Trí khôn các bác để đâu  ( tiếp theo kì trước )




“ cưỡi con dế mèn bay đi khắp thế gian…”
                                                                       


            Sinh thời, ông trùm văn hoá mác xít  Việt Nam, nhà phê bình văn học Như Phong “khái quát “ về nhà văn Tô Hoài vẻn vẹn trong có mỗi một câu :“thằng ngoại ô láu cá, văn chương đẽo gọt”.Văn chương thì khoan nói tới, nhưng về cái sự khôn lỏi,   láu cá đầy phong cách tỉnh lẻ chỉ Hội nhà văn phải lấy “ông này tiên sư”.

Thời bao cấp, được đi nước ngoài “tham quan, hội thảo, gặp gỡ” ( hồi đó chưa có từ “giao lưu”) là một mơ ước xa vời vợi đối với các bác có chân trong Hội nhà văn Việt Nam. Bởi lẽ từ khâu đầu tiên được Ban đối ngoại Hội dự kiến, Ban thường vụ Hội duyệt rồi qua Bộ Nội vụ, Bộ Văn hoá, Bộ Ngoại giao rồi tới Vụ Văn Nghệ,  Ban tuyên giáo trung ương , Ban bí thư…là cả một “con đườùng sấm sét”


với muôn vàn trắc trở.  Cử ai đi chứ cái thằng cha X. này phải coi lại nhé. Nghe nói tư tưởng “có vấn đề ”. Nghe nói phát ngôn lung tung. Nghe nói viết lách không rõ ràng…Bằng ngần ấy ông “gác cửa”, chỉ cần một ông “ phán cho một câu” là rớt đài…đợi chuyến sau. Âùy vậy mà lọt qua được bằng ấy cửa tử rồi, vẫn cứ phải chờ “anh Lành “ ( tức đồng chí Tố Hữu ) gật cho một phát mới gọi là tạm yên tâm và bắt đầu hồi hộp chờ nhận comlê, cavát cùng là hộ chiếu, vé máy bay đợi ngày xuất ngoại.

Hội nhà văn Việt Nam hồi đó có hơn 150 Hội viên mà hàng năm chỉ có dăm bảy suất đi nước ngoài, bởi vậy đó là cuộc đấu tranh sinh tử, giành giật âm thầm và quyết liệt chẳng thua gì vũ đài quyền Anh. Nhà văn nổi tiếng và có nhiều tác phẩm giá trị như Nguyễn Thế Phương, tác giả tiểu thuyết “Đi bước nữa”, “Đào chèo”…mà đến tận cuối đời mới được một xuất đi Trung Quốc ngắn ngày, còn nhà thơ Quang Dũng, từ “ Đôi mắt người Sơn Tây” tới “Nhà Đồi” , viết lách cũng tới cả ngàn trang văn học cách mạng mà …chưa ra khỏi biên giới lần nào. Ấy thế mà riêng Tô Hoài, tổng kết lại trong thời bao cấp ông đã xuất ngoại tới … 105 lượt( một trăm lẻ năm ), đủ  các nước Á, Âu, Mỹ , Úc, Phi…, mà sự nghiệp của bác xem ra đỉnh cao nhất cũng chỉ là truyện vừa “Dế mèn phiêu lưu ký”. Bởi thế dân gian mới có câu :
“Đảng đoàn là Đảng đoàn Thông,
Ở đâu có rượu là ông tới liền
Đảng đoàn làø Đảng đoàn Hoài,
Hễ đi nước ngoài là có ông ngay…”
Hồi đó ông nhà thơ Hoàng Trung Thông và ông nhà văn Tô Hoài đều có chân trong Đảng đoàn Hội nhà văn Việt Nam . Các bác Hội viên “ cả đời chưa một lần đặt đít lên ghế  tàu bay” phải ca cẩm :” cái thằng ranh ma thế , có mỗi con dế mèn mà bay khắp thế gian” . Xem vậy đủ hiểu bác Tô Hoài luồn lách, chen lấn , đội đạp phải cỡ cao thủ võ lâm mới lập kỳ tích số lần đi nước ngoài đáng đưa vào Ghi-Nét Hội nhà văn Việt Nam như thế.

Vậy nhưng cái tính “ngoại ô láu cá” ấy của bác Tô Hoài chẳng phải do cách mạng hun đúc nên mà ngay từ hồi còn phong kiến đế quốc bác đã mang nó  rồi. Ngày nay đọc lại “Dế mèn phiêu lưu ký” mới thấy “anh Sen làng Nghĩa Đô” ( tên thật của tô Hoài) đã ranh ma từ độ ấy, mới giật mình, sao chú dế oắt “ngoại thành” này “khôn lỏi” thế ? Lo toan cho cái thân mình thế ? Mới nứt mắt chú đã : “Ngày nào cũng vậy, suốt buổi, tôi chui vào trong cùng hang, hì hục đào đất để khoét một cái ổ lớn làm thành cái giường  ngủ sang trọng. Rồi cũng lo xa như các cụ già trong họ dế, tôi đào hang sâu sang hai ngả làm những con đường tắt, những cửa sau, những ngách thượng, phòng khi gặp việc nguy hiểm, có thể thoát thân ra lối khác được…Bởi ăn uống điều độ, làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm…” Quân tử “phòng thân” từ thủa ấu thơ kỹ lưỡng vậy trách gì khi trưởng thành chẳng rút ngay bài học “chui tọt ngay” vào hang sau khi lớn giọng trêu chị Cốc “ vặt lông cái Cốc cho tao, tao nấu tao nướng, tao xào tao ăn” để mặc thằng Dế Choắt bị chị Cốc “giận cá chém thớt” mổ cho đến chết, trong lúc đó Dế Mèn ta “ lên giường nằm khểnh, vắt chân chữ ngũ”, thây kệ thằng Dế Choắt ăn đòn thay mình.

Sau này, trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, cho dù chàng Dế Mèn chẳng dám chọc tức Đảng câu nào, nhưng cũng “tự đấm ngực nhận lỗi” trên báo Nhân Dân số ra ngày 12 tháng 3 năm 1958 :
.      “Tư tưởng xấu của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm đã tiếp tục len vào cơ quan của Hội nhà Văn, trên báo Văn, gây nhiều tác hại. Quan niệm mơ hồ của tôi, khách quan đã tạo điều kiện cho khuynh hướng tư tưởng nhóm ấy lợi dụng diễn đàn báo Văn và một số cơ quan khác của Hội Nhà Văn như nhà xuất bản, câu lạc bộ, đã gieo rắc quan điểm chính trị và nghệ thuật nguy hại. Sự yên tâm vô lý của tôi trước tình hình đó là do tôi đã hầu như không để ý rằng miền Nam còn nằm trong lưới đế quốc Mỹ. Bộ máy chiến tranh tâm lý của Mỹ Diệm ngày đêm tìm mọi cách gieo rắc tư tưởng thù địch để phá hoại sự nghiệp xây dựng miền Bắc của chúng ta. Trong văn học hiện nay không thể quên mỗi tư tưởng đều hoặc có lợi cho ta hoặc có lợi cho địch. 

“ Rồi thì thây kệ chị Cốc cứ mổ la liệt cá chàng dễ choắt, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán… đuổi đi đào đất, vác than. Chàng Dến Mèn chui tọt ngay vào cái hang “ đề tài miền núi” viết toàn chuyện “quan thống lý Pá Tra” đàn áp , bóc lột “vợ chồng A Phủ”  tức “người Mèo ta khi chưa có Đảng”, tránh xa mọi chuyện hiểm nguy nới phố thị, tha hồ cho “chị Cốc” hoành hành, chàng cứ ung dung “toạ hưởng kỳ thành”, vắt chân chữ ngũ lâu lâu lại “cưỡi con dế mền ” bay đi tham quan nước bạn. Thành công đó là nhờ Tô Hoài đã rút “kinh nghiệm” của chú Dế Mèn ngày xưa : “Ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn gì cũng mang vạ vào thân”. Cái đám Nhân văn Giai Phẩm kia đúng là “hung hăng bậy bạ”, “có óc mà không biết nghĩ” , “ Ôi thôi, chú mày ơi. Chú mày có lớn mà chẳng có không” (lời Dế Mèn dậy Dế Choắt) thì bị Đảng cho ăn đòn còn oan nỗi gì ? Phải khôn ranh, láu cá thì mới giữ được thân, hưởng lộc dài dài, chẳng thế mà hiền lành như nhà văn Bùi Hiển cũng phải than :” Tôi lại có cảm giác là anh ( Tồ Hoài) có khuynh hướng hơi e ngại, hơi dè chừng…”. Giống như  chú Dế Mèn trong suốt cuộc phiêu lưu , chẳng thấy “hành hiệp giang hồ”, đánh kẻ mạnh cứu kẻ yếu đuối, toàn đi “chọi “ với Cào Cào , Châu Chấu …mà cứ hễ thua là bỏ chạy, Tô Hoài cũng vậy, suốt cả mấy thập kỷ ngồi ghế “lãnh đạo văn nghệ” (hết Hội nhà văn Trung ương lại tới Hội nhà văn Hà Nội), bao nhiêu nhà văn Hà Nội bị “Cốc mổ” như  Xuân Khánh, Châu Diên, Vũ Bão, Lê Bầu…mà chưa lần nào thấy ông Dế Mèn lên tiếng bênh vực đàn em, chưa kể có khi còn xúi “chị Cốc” mổ thêm cho chết. Hoá ra “ triết lý con lươn” của Nguyễn Khải – cứ gặp rắc rối là tiết chất nhờn lủi mất, còn thua xa bí kíp “chui tọt xuống hang” của bác Dế Mèn. Cứ chữ “thọ” đeo sau lưng, Nhân văn –Giai Phẩm lủi lên Tây Bắc, Mỹ đánh miền Hà Nội , chuồn lên rừng…  cứ thế làm gì bác chẳng lập kỷ lục  Ghi Nết “hễ đi nước ngoài là có ông ngay”.
Vậy nhưng “cứ tọt xuống hang” vậy rồi sự nghiệp văn chương chữ nghĩa của bác rồi sẽ đi về đâu ?
    
    Nhìn vào bản liệt kê các tác phẩm đã xuất bản của Tô Hoài, ta phải ngả mũ bái phục về khối lượng đồ sộ của “lão nhà văn” tuổi ngoài tám mươi vẫn viết không ngưng, không nghỉ :
“Lão đồng chí, Núi cứu quốc, Ngược sông Thai, Đại đội Thăng Bình, Xuống làng, Truyện Tây Bắc , Khác trước, Võ tỉnh, Người ven thành, Mười năm, Miền Tây,Tuổi trẻ Hoàng văn Thụ, Những ngõ phố, Người đường phố, Thành phố Lêningrat, Trái đất tên người, Kim Đồng, Vừ A Dính, Ông Gióng, Con mèo lười, Trâu húc, Đảo hoang, Sự tích Thăng Long, Nhả chữ  vân vân…”  và gần đây nhất là hồi ký “ Cát bụi chân ai”.

 Tuy nhiên, trong tập thơ  “ Chân dung nhà văn”, nhà thơ Xuân Sách  khái quát sự nghiệp văn chương của Tô Hoài, còn lại với thời gian chỉ dăm ba cuốn :
                            “ Dếâ mèn  lưu  lạc mười năm
                            Để cho “O chuột” ôm cầm thuyền ai ?
                            Miền tây trăng đã tàn phai
                            Giăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang”

Những “Dế mèn phiêu lưu ký”, “O chuột” ,“Giăng thề”  được viết từ trước cách mạng 1945 khỏi nói tới, sau đó dù có viết tới vài ngàn trang, theo cách nhìn nhận của nhà văn Xuân Sách, Tô Hoài còn lại có “Mười năm”, “Miền tây” và “Đảo hoang”.

“ Mười năm” là cuốn tiểu thuyết dầy 400 trang viết về làng Hạ gần Hà Nội vào thời kỳ (1936-1945), tức là thời kỳ Mặt trận Bình Dân tới Cách mạng tháng Tám. Cái làng nghề dệt lụa này đang vào thời kỳ suy sụp, khung cửi xếp xó, xóm làng xác xơ  gây nên thảm trạng “con đánh bố”, “trai gái sắp chết đói vẫn đòi ngủ với nhau”… ” Có áp bức là có đấu tranh”, thế là đám thanh niên trong làng như  Lê, Lạp, Trung quên cả đói “chơi trò” trốn thuế, diễn kịch, lập hội Ái hữu, rải truyền đơn…và sau “Mười năm” trui rèn trong lửa cách mạng, Lạp và Trung đã trở thành  “đảng viên cộng sản lãnh đạo quần chúng cướp chính quyền ở xã và phủ”, còn chị Hai Tâm, goá chồng, dâm đãng, bị một thằng đểu nó lừa…sau này cũng trở thành đảng viên cộng sản, có chân trong Đội Danh dự làm “công tác đặc biệt”. Vậy là mọi ngả đường  của phần lớn các nhân vật đều đi tới …vào Đảng cộng sản cả. Ca ngợi đến mức đó mà “Mười  năm” vừa mới ra lò đã bị  Như Phong, nhà phê bình mác xít “choang cho một búa “ :” Phong trào cách mạng của ta trong thời kỳ ấy, nếu ai muốn tìm hiểu nó trong cuốn “Mười năm” thì sẽ luôn luôn gặp những hình ảnh rất lạ lùng, lờ mờ, nguệch ngoạc và có khi méo mó đến làm ta sửng sốt được…”. Nhà nghiên cứu văn học Phan Cự Đệ thì răn đe :” Nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa không chấp nhận lối viết hồn nhiên, tự phát, kinh nghiệm…mà đòi hỏi một sự nhận thức sâu sắc về những quy luật xã hội, một trình độ tổng hợp và khái quát ngày càng cao…”. Ôi thôi, thế mới biết đi theo đường lối văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa của Đảng đâu có dễ. Nào nhận thức quy luật, nào tổng hợp, nào khái quát, các nhà văn đi theo cách mạng đừng có tưởng bở dễ ăn theo được Gorki, Sôlôkhốp, Fađêép …những nhà văn cộng sản lẫy lừng thời đó. Vậy  là  “Mười năm” đã bị “khai đao” ngay từ lúc mới sinh và cho tới bây giờ đọc lại thấy vẫn “đầu Ngô mình Sở”, may ra còn được vài trang tả cảnh “ những phiên chợ lụa, những chái nhà sâu dặt dìu tiếng khung cửi, những mảnh sân vào những đêm trăng cuối thu thoang thoảng mùi hoa thiên lý , hoa cau, hoa ngọc lan, hoa móng rồng”.

Viết chuyện “ngoại ô” xem ra khó xơi, Tô Hoài “láu cá” (chữ của Như Phong) phóng tuốt lên rừng viết truyện “ Miền Tây” giàu chất phóng sự, báo chí hơn là tiểu thuyết. Nếu như trước cách mạng, Tô Hoài thường đi sâu miêu tả cá nhân trong thân phận  mỗi người, sang “thời đại mới”, ông sốt sắng đi theo con đường hiện thực XHCN theo cách hiểu của ông, chuyển hướng sang “phản ánh” cả một phong trào, một thời kỳ cách mạng. Bởi thế cái đích ngắm của ông trong “Miền Tây” là “phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp gay go và phức tạp ở các vùng cao những năm 1954-1957 giữa một bên là “bọn phản động” Đèo văn Long, Mùa Sống Cổ…”xưng vua”  và một bên là nhân dân và chính quyền cách mạng. Tiếc thay, “phe phản động” chẳng thấy đâu, hoặc chỉ là những bóng ma lẩn khuất trong rừng đâu có dễ dàng lộ diện cho nhà  tiếp xúc để mà “ nhận thức quy luật”, “khái quát” để mà “phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp gay go”, bởi thế Tô Hoài phải dùng lại cái “chiêu” cũ : mô tả cái đói cái cơ cực trước cách mạng và cái “đổi dời” khi cách mạng về của đồng bào miền núi. Tuy nhiên, gọi là “bám rễ” ở vùng cao, Tô Hoài cũng chỉ quẩn quanh ở các trụ sở Uỷ Ban, Đảng uỷ…gặp gỡ các “nòng cốt” của Đảng chứ đâu có “ba cùng” được với bà con trong bản. Bởi thế nhân vật trong “Miền Tây”, dù cho có là nhân dân lao động đi chăng nữa cũng được sản xuất theo một công thức : cơ cực khi chưa có Đảng, đổi đời khi cách mạng về như là “ Vừ Soá Toả, suốt ba đời đi ở đúc lưỡi cày cho thống lý, bây giờ trở thành Chủ tịch xã…” “ Thào Khay , con bà Giàng Súa đã trở thành y sĩ, thành người cán bộ của Đảng, có chân trong châu uỷ Châu Mộc…”  vân vân và vân vân. “ Nhân vật” trong tiểu thuyết Miền Tây đã hiếm hoi nhưng lại được đúc ra từ một khuôn kiểu vậy, bù lại, lấp cho đầy những trang giấy, Tô Hoài đi sâu vào “tả cảnh”. “ Những đêm đầu mùa hè mây dày từng mớ, từng lớp vàng đẫm ánh trăng ủ trên những cánh rừng tít tắp chân mây , những thung lũng làng mạc xa lạ…”,”Bóng tối trĩu nặng từng quãng nhanh và dữ dội , gió chồm lên rồi chết đứng từng đợt ngay giữa các triền núi , những dòng suối chảy ra lưng trời, chảy ngang người ngang ngựa…”. Tuy nhiên, những đoạn văn có mùi Nguyễn Tuân như thế rất hiếm hoi, còn thường là Tô Hoài dùng “thủ pháp đen trắng”, so sánh “ngày ấy, bây giờ” :” Trước kia mỗi phiên chợ Phiềng Sa, người đói muối đông nghìn nghịt chen chúc nhau, chồng đống lên nhau như đá đè, tiếng chửi rủa kêu khóc vang cả một góc núi. Bây giờ những ngày phiên chợ giáp Tết là những ngày hội tưng bừng của các dân tộc vùng  cao. Sự thật kỳ diệu nhất sau ngày giải phóng là sự thay đổi vận mệnh của những con người, những người nô lệ bây giờ đứng lên làm chủ đất nước…”. Chẳng hiểu có cái gì làm ông nhà văn bốc đồng đến thế, quên ngay mình đang viết tiểu thuyết mà nhảy phắt sang viết…xã luận đăng báo Nhân Dân.

Khởi nghiệp bằng truyện con nít, “Dế mèn phiêu lưu ký” đã đưa mình đi khắp thế gian, Tô Hoài không quên xuất xứ, nên trong sự nghiệp văn chương của ông có tới trên 40 dầu sách viết cho thiếu nhi. Thế nhưng chất nhân văn của chú Dế mèn và cô Chuột ( O chuột) dường như ngày càng lấn át bởi chất “chính trị “như trong “Vừ A Dính”, “ Tuổi trẻ Hoàng văn Thụ”, “ Kim Đồng” nên những truyện  kể con vật như “Chú mèo lười”, “Trâu húc”,” Người đi săn và con nai”, “ Voi biết bay”, “Hổ và Gấu đi cấy”…còn lâu mới tới chú  Dế mèn và cô Chuột. Đó là chưa kể trẻ con ngày nay đổ xô tìm đọc những Đôrêmôn, Harry Potter…cùng lắm là Nguyễn Nhật Ánh dẫn tới nguy cơ “mặt hàng giành cho thiếu nhi” của nhà văn Tô Hoài không khéo bị lưu kho. “Đảo hoang” là “tiểu thuyết thiếu nhi” được nhà thơ Xuân Sách nhắc tới trong thơ “ Chân dung nhà văn” cũng được viết theo truyền thuyết An Tiêm nhưng còn thua xa “Quả dưa đỏ” của Phạm Trọng Luật ngày xưa. Trong “Đảo hoang”, Tô Hoài đã tuỳ tiện “sáng tác “ thêm hai nhân vật là Mơn và và Gái – con trai, con gái của An Tiêm. Rồi trên hoang đảo lại có thêm một chàng trai tên Mali từ đâu  dạt tới để sau này cùng với cô Gái sánh duyên đi xây dựng…miền đất mới. Cái “cảm hứng” xây dựng miền đất mới , cuộc sống mới, con người mới, xã hội mới này làm cho những “tiểu thuyết thiếu nhi” của Tô Hoài nặng về giáo dục làm mệt đầu con nít vốn đã bị nhà trường nhồi nhét đủ thứ “mới” ở trên đời. Bởi thế  chúng nó bỏ anh  Dế Mèn chạy về với những Đôrêmôn, Harry Potter, Tom & Jerry…thì cũng là…quy luật tất yếu của cuộc sống…

Mới đây, nhân dịp kỷ niệm 45 năm chiến thắng Điện Biên, Báo Văn Nghệ Trẻ số ra ngày 23-4-04 có đăng bài phỏng vấn Giáo sư Phong Lê về “ Văn học nhữõng năm kháng chống thực dân Pháp – BÂY GIỜ NHÌN LẠI” . Nhà nghiên cứu văn học này phát biểu :” Đến Giải thưởng 1954-1955 với “ Việt bắc” của Tố Hữu, “Đất nước đứng lên “ của Nguyên Ngọc, “Truyện Tây bắc” ( giải nhất) của Tô Hoài thì bức tranh kháng chiến mới thực sự được mở rộng trong một cảnh quan vừa có chuyện vừa có người, có quê hương và đất nước, có gắn nối giữa chất trữ tình và sử thi, có hài hoà giữa chủ thể và khách thể…”.
  
 Vậy là trong “thơ chân dung” nhà văn Tô hoài  , nhà thơ Xuân Sách đã quên một tác phẩm mang tầm vóc dấu mốc của văn học chống Pháp – “ Truyện Tây Bắc”. Vậy nhưng tác phẩm này có tương xứng với những lời tâng bốc của ông Giáo sư  ?  Đó là một tập truyện ngắn Tô Hoài viết vào những năm 1953-1955 tiếp tục đề tài miền núi trong những tập “ Núi cứu quốc” (1948), Xuống làng (1949) rước đó. Tuy nhiên, như Giáo sư Phan Cự Đệ khẳng định:” Đến “Truyện Tây Bắc” mới là tác phẩm cắm mốc , khẳng định vị trí của Tô Hoài trong nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Tại sao một tập truyện ngắn đường rừng rất xa trung tâm của cuộc kháng chiến - những vùng chiến sự ác liệt nơi đồng bằng, trung du…lại được tôn vinh “cắm mốc” ?  Đó là do “…thông qua hành động thực tiễn, đường lối giai cấp và đường lối dân tộc của Đảng , tác phẩm đã nói lên một cách đau xót nỗi thống khổ bao đời của các dân tộc anh em ở vùng cao dưới ách chiếm đóng của thực dân Pháp và bè lũ tay sai là bọn quan bang, quan châu, phìa tạo, thống lý …”  như GS Phan Cự Đệ nhận xét. Vậy là khác với những truyện đường rừng ngày xưa của Lan Khai, “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài có”giá trị cao” là vì “thấm nhuần  đường lối của Đảng”. Thảo nào trong hai truyện được coi là xuất sắc nhất trong cả tập là “Cứu đất cứu mường” và “Vơ ïchồng A Phủ”  hễ cứ là “phong kiến” thì cực kỳ tàn bạo, gian manh, còn nhân dân lao động thì tốt thật tốt.

Trong “Cứu đất cứu Mường”, có“Cô Áng ngày xưa đã một thời đẹp nức tiếng đất Mường Cơi”, thế rồi bông hoa rừng ấy lọt vào tay quan tri châu Né “tối ngày ngồi một xó nha, rót nước, nướng thịt, bưng xôi, đun nước tắm …con mắt mờ mịt…”.  Cái ông quan tri châu này chẳng hiểu có thực ở trên đời không mà bao kẻ hầu người hạ đâu hết lại bắt “mỹ nhân” làm chuyện tay chân đó ? Cái ”tình huống ban đầu” đã nặng mùi giả dối, ấy thế rồi sau 10 năm đầy đoạ,“bông hoa rừng” được thả về làng mang theo hai con nhỏ ( con quan chẳng hiểu vì sao bị đuổi khỏi nhà ) vẫn còn…trẻ, đẹp để mỗi lần các quan đi săn ghé qua vẫn bị lôi đi hầu quan. Thế rồi nàng Ảng khổ quá phải cho đi một đứa con trai tên Nhấn , còn đứa con gái lại phải làm tôi tớ cho thằng con chồng là Cầm Vàng, sau này dẫn lính về cướp bản, nó chỉ mặt Ảng chửi :” Con gia øMường này rồ thật”  rồi vung roi lên đánh. Chẳng hiểu sao “quan bố“ “quan con” lại xấu đến thế ? Riêng thằng Nhấn- đứa con đã cho đi của nàng Ảng, lớn lên được anh cán bộ tên Sơn giác ngộ cách mạng trở thành du kích và bộ đội cụ Hồ. Thế còn cô em gái phải làm tôi mọi cho quan ? Không thấy tác giả nói tới và thằng anh ruột đi bộ đội cũng…quên cô luôn (có lẽ do cô đã thuộc thành phần…nhà quan).
Trong “Vợ chồng A Phủ” cũng có một nhân vật na ná như  nàng Ảng nhưng có phần may mắn hơn. Cô Mỵ cũng là một “bông hoa rừng”, cũng bị bắt về lấy con quan thống lý là A Sử. Lạ một điều là cưới  được “mỹ nhân” mà thằng chồng vẫn hành hạ, ngược đãi cô vợ trẻ đẹp coi cô như trâu như ngựa khiến cô hái nắm lá ngón dắt trong người, mấy lần tính ăn để tự tử  cho thoát kiếp tôi đòi. Thế rồi đến ngày Tết, A Sử đi chơi xa vài ngày, đã không cho vợ đi theo hắn còn trói nàng lại ở cột nhà ,” xách cả một thùng sợi đay ra trói đứng, tóc Mỵ xoã xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mỵ không cúi, không nghiêng được đầu nữa…” . Trói vậy, không ăn không uống liền mấy ngày, chắc chắn khi A Sử đi chơi xa trở về, cô vợ xinh đẹp đã thành cái xác không hồn. Người ta chẳng hiểu vì sao chỉ cốt cô Mỵ không đi theo mà A Sử lại hành động như một kẻ giết vợ như thế ? Thôi đành chỉ tự hiểu đã là con quan thì thằng A Sử phải tàn ác, phải coi người như trâu chó, kể cả vợ mình. Vậy mới là “thấm nhuần quan điểm đấu tranh giai cấp”. May cho nàng Mỵ, thằng chồng chỉ đi một ngày một  đêm  đã trở về không phải vì lo nàng chết mà chính vì lúc chơi trong hội tết nó bị một thanh niên trong bản đánh vỡ  đầu. Mãi lúc đó, nàng  Mỵ mới được nhà quan phát hiện đang bị trói và được cởi để đi hái thuốc chữa trị cho chồng. Còn anh thanh niên kia, tên A Phủ, bị ông ”quan bố” Pá Tra trói gô “sọc ngang cái gậy, khiêng về ném giữa nhà “. Thế là từ đó, A Phủ phải ở lại nhà thống lý Pá Tra làm trâu làm ngựa đề đền tội đả thương con quan. Một năm kia, đàn ngựa A Sử được giao chăn dắt  bị hổ vồ mất một con. Thế là luôn trong mấy ngày, A Phủ bị trừng phạt trói đứng trong góc nhà nhịn ăn nhịn uống. Trong lúc đó, đêm đêm nàng Mỵ ngồi bên bếp lửa suy nghĩ :” Chúng nó thật độc ác . Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói , chết rét, phải chết…Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Người kia việc gì mà phải chết thế …A Phủ…”. Thế rồi nàng Mỵ rút con dao cắt dây trói cho A Phủ trốn và bất ngờ øcô chạy theo :” A Phủ cho tôi đi…Ở đây thì chết mất…”. A Phủ chợt hiểu. Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. Họ trở thành vợ chồng ngay trên đường trốn chạy và một tháng sau họ đã thoát được sang vùng tự do. Truyện ngắn lẽ ra là kết thúc ở đây trang thứ 20 – nhưng không, Tô Hoài còn kéo dài thêm 20 trang nữa kể chuyện “vợ chồng A Phủ đổi đời trong cách mạng” vậy mới đúng phương pháp hiện thực  XHCH. Sau vài năm xây “tổ ấm”, vợ chồng A Phủ đã có mái nhà,có khung cửi, có lợn trong chuồng. Ấy thế rồi một hôm quan Tây dắt lính nguỵ tới cướp bản, dắt đi hai con lợn lại còn bắt A Phủ đi theo để khiêng lợn xuống đồn. Từ đó trong anh nung nấu lòng căm thù quân Pháp xâm lược, may thay một hôm có A Châu, cán bộ cách mạng tìm tới giác ngộ:” Bao giờ nhân dân ta lấy được độc lập thì vợ chồng A Phủ về quê tôi chơi. Bấy giờ tha hồ đi, đâu cũng được ở yên ,làm ruộng làm nương, làm buôn làm bán, đâu đâu cũng sung sướng như nhau…” . Và ta cũng có thể đoán ngay được phần kết của “truyện ngắn kéo dài” “Vợ chồng A Phủ”. Bản làng trở thành khu du kích, cuộc sống vừa sản xuất vừa chiến đấu thật là vui vẻ, tươi sáng và tất nhiên A Phủ trở thành một chiến sĩ du kích xuất sắc.
 Truyện Tây Bắc” – đỉnh cao nhất trong sự nghiệp văn học cách mạng của Tô Hoài, tác phẩm đánh dấu mốc mở ra  thời kỳ văn học hiện thực XHCN Việt Nam là như vậy. Văn chương dễ dãi, chẳng “đẽo gọt” như Như Phong nhận xét, nội dung sơ lược, mang nặng mục đích tuyên truyền chính sách dân tộc miền núi của Đảng, bỏ qua tính chân thực vốn là cốt lõi của văn chương, viết theo lối viết “địch - ta” rạch ròi, vạch một ranh giới tuyệt đối giữa các nhân vật và chỉ chấp nhận họ hoặc ở phe này hoặc phe kia. Rút cuộc, “đỉnh cao sự nghiệp Tô Hoài “ vốn ra đời theo yêu cầu nhất thời của cách mạng đã bị thời gian đào thải, ngày nay, ngoại trừ những học sinh và sinh viên  phải làm bài, khó có ai đủ kiên nhẫn để thưởng thức nó.

Trong thời cố Tổng Bí thư Nguyễn văn Linh “cởi trói” cho văn nghệ sĩ, hội chứng “phản tỉnh” không chỉ nảy nòi ở các nhà văn trẻ , một số cây đa cây đề cũng bị nhiễm “con virus” này, viết bài “tự chỉ trích” hoặc “phân bua” với thiên hạ mình cũng suy nghĩ độc lập lắm đây. Chế Lan Viên có bài “ Bánh vẽ”, Nguyễn Minh Châu có “ Đọc lời ai điếu cho một nền văn học minh hoạ”…mới đây Đào Xuân Quý có “ Nhớ lại”. Tuy không nặng mùi “ phản tỉnh”, nhưng Tô Hoài cũng viết một cuốn hồi ký dầy cộp – “ Cát bụi chân ai”, nói rõ một số chuyện xoay quanh vụ Nhân văn Giai phẩm, “dựng lại chân dung” một số nhà văn “cây đa cây đề” làm xôn xao dư luận một thời.
Trước khi đưa ra một số tình tiết “phản kháng” của văn nghệ sĩ trong vụ án văn này, Tô Hoài “thủ” trước một lập trường chính trị vững vàng theo Đảng :
” Nhưng mà những hoạt động gây sự không phải chỉ ở vài bài báo trên Nhân Văn, mà cái chính là ý đồ chính trị rộng ra nữa của một số giới không phải là những người làm báo Nhân Văn trong tình hình nhạy cảm ở các đô thị lúc ấy….không ai lưu tâm những người bỏ tiền cho vốn in báo và những hoạt động chính trị đòi thay đổi và chia quyền lãnh đạo đã âm thầm dấy lên, trong giới tư sản đương bối rối, trong một số trí thức ở vùng mới giải phóng và ở đảng Dân Chủ. Báo Nhân Văn chỉ là một phần bề ngoài và là một thủ thuật chính trị dựa vào “trăm hoa đua nở”. “
Vậy đã rõ ràng, trong vụ Nhân văn Giai Phẩm, Tô Hoài trước sau vẫn vững “lập trường cách mạng”, không có “phản tỉnh”, “phản mê” gì hết. Tuy nhiên ông cũng đưa ra một vài hồi ức cho thấy không phải nhà văn nào cũng “vững vàng” như ông.

Trên báo Nhân Dân số ra ngày 12 tháng ba năm 1958  có đăng bài “ Nhìn lại một số sai lầm trong bài báo và công tác “, Tô Hoài sát phạt anh em :”càng thấy rõ những tư tưởng nguy hại của một số người, từ báo Nhân Văn, không phải ngẫu nhiên tồn tại và có cơ phát triển đối kháng, chống lại Đảng, chống lại chủ nghĩa xã hội trong khi giai đoạn cách mạng đương chuyển nhanh, chuyển mạnh.”  và tự kiểm thảo :”Tôi đã đánh giá thấp những hoạt động của tư tưởng chính trị và nghệ thuật kiểu báo Nhân Văn vẫn sống sót, lại nhặt nhạnh dần thêm những rơi rứt lạc hậu của từng người hoặc một phần nào trong tự tưởng mỗi người, vào lúc giai đoạn cách mạng đương chuyển, nó dẫy giụa chống lại bước tiến mới của cách mạng và đã tác hại không nhỏ.”

Tô Hoài nhớ lại , ngay sau khi đọc bài báo :
         “Nguyên Hồng buông tờ báo xuống. Rồi Nguyên Hồng xua xua tay, nói như hét vào mặt tôi:
- Tiên sư mày, làm thằng Câu Tiễn ông thì không, Nguyên Hồng thì không!
Nguyên Hồng quỳ xuống trước tôi, rồi cứ phủ phục thế, khóc thút thít.
- Tao về Nhã Nam.
- Về Nhã Nam?
- ừ, Nhã Nam. Đủ, đủ lắm rồi. Ông đéo chơi với chúng mày nữa. Ông về Nhã Nam.”
   Phải chăng mượn lời Nguyên Hông , 42 năm sau, Tô Hoài đã “chữa khéo” hành động của mình trong vụ Nhân Văn hồi đó là “ Câu Tiễn” ?

Trong những năm tháng “ khó khăn “ đó, Tô Hoài kể lại “ hai hoạ sĩ Nguyễn Tư Nghiêm và Dương Bích Liên, tuy chỉ làm có cái bìa sách cho nhà xuất bản nọ nhưng chắc là không khí sát phạt ở các buổi họp khiến các anh ngại, đã xin ra Đảng”; Dương Bích Liên đã vẽ “một tranh sơn dầu hai đứa trẻ gái gầy guộc xanh lét cả tóc”  có tên là “Hào”  bị loại khi mang ra triển lãm; Nguyễn Sáng vẽ ký hoạ trên báo Nhân Văn một đầu người ở cổ có vết khía, như cái lá. Người ta bảo đấy là chân dung Trần Dần và cái sẹo còn lại khi anh định tự vẫn. Nguyễn Sáng không được bình huân chương kháng chiến ; Nguyễn Huy Tưởng thì “mấy đêm  không chợp mắt được. … Nguyễn Huy Tưởng nói:”Nước Hungari trong phe xã hội chủ nghĩa, nhưng trước nhất nước Hungari là nước Hungari đã ông thấy thế nào? Các ông thấy thế nào? Tôi không hiểu, tôi không thể hiểu.”…Nguyễn Huy Tưởng băn khoăn. Nguyễn Huy Tưởng có những ý kiến khác những lời bình trên các báo.Tôi đùa:” Ông là thằng cộng sản dân tộc”.Nguyễn Huy Tưởng cười hiền lành.:” Cậu bảo tớ bắt chước Ti tô? Không phải,  Nguyễn Huy Tưởng là cộng sản Việt Nam. Nhưng mà nguy hiểm đấy. Chẳng nên đùa nhau thế.”.Nguyễn Huy Tưởng nói nho nhỏ, cặp mày rậm nên con mắt hồn nhiên nhíu lại, buồn hẳn. Chúng tôi không bao giờ đùa cợt và nhắc lại như vừa rồi nữa.”, Trần Dần, Lê Đạt , Hoàng Cầm, Phùng Quán  bị tước hội tịch trong 5 năm nhưng “Nhưng đằng đẵng ba mươi năm không hội văn học nghệ thuật nào lôi ra xem xét lại. Sợ sệt, phấp phỏng không phải chỉ ở tâm trạng mấy ông “Nhân Văn cả nước”, mà tràn lan đến những “Nhân Văn phố, Nhân Văn xóm”, chẳng bị kỷ luật gì, nhiễu người không phải vì bài văn câu thơ, mà bởi lời nói bông lông, bốc trời chẳng hạn, cũng bị quy chụp luôn.”, khi nhà học giả Phan Khôi mất “ đi sau xe tang, chỉ có bác gái và các con với một mình chị Hằng Phương - cháu gọi bằng cậu”. Nhớ lại Phùng Cung, tác giả “Con ngựa già của chúa Trịnh”, 11 năm tù biệt giam, Tô Hoài ngậm ngùi : “ Phùng Cung công tác chạy hiệu ở văn phòng cơ quan hội Văn Nghệ từ trên Tuyên Quang. ở rừng, những việc tủn mủn không tên, giấy tờ công văn, giữ sách thư viện, làm sách mới, đi chặt củi, vác gạo, khiêng người ốm ra trạm xá, thui chó liên hoan..Đọc truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh Phùng Cung đăng trên báo Nhân Văn tôi cũng gật gù. “ Thằng này viết được. Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm nên cháo đấy, con ạ.”.Tôi không thể tưởng tượng ra được một Phùng Cung thế nào mà bị bắt.Lại hơn mười năm sau. Chặp tối, một người bước vào cửa. Dáng ủ rũ, mặt tái ngoét, không phải Phùng Cung mà là cái bóng Phùng Cung trên tờ giấy tẩy chì mờ mờ.”

Cũng trong cái thời nhà văn bị theo dõi tới từng câu từng chữ ấy, Tô Hoài nhớ lại :
      “Có một thời, những người “theo dõi” báo chí, xuất bản và phát hành sách báo được phong làm lính gác. Lính gác thì phải có việc của lính gác, chẳng lẽ ăn lương để đứng không. Nhưng thật ra người ta chỉ đọc a dua rồi đánh đòn hội chợ. Cấp trên hô người ấy, bài ấy có vấn đề. Tự nhiên cảm thấy hình như có vấn đề thật và người ta dò tìm từng câu từng chữ. Thế nào chẳng ra vấn đề! Bỗng khó chịu cả cách diễn đạt khác nhau của mỗi ngòi bút, thế là làm sao. Không biết vì tổ chức đặt ra công tác theo dõi làm cho cái người theo dõi bỗng nhiên được làm thầy thằng bị (được) theo dõi. Hay là tại vì thuở nhỏ đi học, nhà trường chưa bao giờ giảng cho các vị ấy khi còn là học sinh hiểu bài văn muốn có ý nghĩa, trước hết bài văn phải hay. Khốn thay, người ta viết văn thất bại nhưng vẫn làm cán bộ theo dõi được. Cái nhìn sự sáng tạo cứ lên xuống theo thời tiết. Nguyễn Tuân cáu kỉnh nhẹ nhàng và chua chát:
- Có khi mày bảo chúng nó viết đi, để ông với mày đi chơi, thế là bớt được thằng công tác theo dõi!
Nói vậy, Nguyễn Tuân vẫn là Nguyễn Tuân thế, không có gì khác.
- Này, chúng nó đồn ầm lên ông mới nói, nếu ông còn trẻ thì ông cũng bỏ đất này ông đi.
Nguyễn Tuân thong thả nói, như cho mình nghe:
- Biết đuổi theo đứa nào mà cải chính bây giờ,  tao mà chết, nhớ chôn theo với tao một thằng phê bình…”

Những trang viết thực như vậy quả là những tư liệu đáng quý trong lịch sử văn học Việt Nam, tuy nhiên, cuốn “ Cát bụi chân ai” của Tô Hoài lại gây xôn xao bạn đọc ở phần “bật mí” những khía cánh riêng tư của các ngôi sao văn học.  Chẳng hạn tuy Nguyễn Tuân được tiếng là “tài tử” nhưng lại rất kỹ tính “ Năm 1961, Nguyễn Tuân lên Hà Giang dự khánh thành đường Bắc Quang - Hoàng Su Phì. Hoà bình thảnh thơi rồi, nhưng vẫn lại là về rừng, lại đeo cái ba lô Nhật với những sợi dây dù Mỹ buộc màn, không quên chiếc bi đông chiến dịch sông Thao hơn mười năm trước. Giữa đám các thứ lỉnh kỉnh, một xếp giấy bản lau chén bát, một quyển sách đang đọc và mấy thẻ hương mua thửa ở hàng quen cửa chợ Đồng Xuân để…chống muỗi”.

Nhiều năm nay, thiên hạ đồn thổi về cái sự “tình trai” của Xuân Diệu, trong “Cátbụi chân ai”, Tô Hoài đã huỵch toẹt ra chuyện đó :

“Dịu dàng, âu yếm, Xuân Diệu cầm cổ tay tôi, nắm chặt rồi vuốt lên vuốt xuống. Bốn mắt nhìn nhau đắm đuối…Hai bàn tay mềm mại xoa lên mặt lên cổ rồi xuống dần, xuống dần khắp mình trần truồng trong mảnh chăn dạ… Chẳng còn biết đương ở đâu, mình là ai, ta là ai, hai cơ thể con người quằn quại, quấn quít cánh tay, cặp đùi thừng chão trói nhau lại, thít lại, giằng ra. Niềm hoan lạc trong tôi vỡ ra, lên cơn dữ dội, dằn ngửa cái xác thịt kia. Rồi như chiêm bao, tôi rời rã, thống khoái, im lặng. Giữa lúc ấy, hai bàn tay mềm như lụa lại vuốt lên mặt. Làn môi và hơi thở nóng như than bò vào mắt, xuống vú, xuống rốn, xuống bẹn... Cơn sướng lại cơn lên cho đến lúc ngã cả ra, rúc vào nhau. …
Thực là một trang đặc tả mà ngay đến các cây bút “hậu hiện đại” cũng chưa viết nổi.  Còn chàng Hoàng Cát , một “tình trai “ của Xuân Diệu, khi lên đường  vào B được Xuân Diệu tặng thơ  với lời yêu đương thống thiết :

“ Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga
Chưa chi ta đã phải chia xa!
Nhưng bóng em đi đã khuất rồi
Đứt lìa khúc ruột của anh thôi!
Tình ta như mối dây muôn dặm
Buộc mãi đôi thân, dẫu cách vời…”
Ay thế mà khi Cát trở về Hà Nội viết “ Cây táo ông Lành” đăng báo Văn Nghệ bị đòn hội chợ, Xuân Diệu đã quay ngoắt :’ Tôi không biết thằng đó là ai ?”

Nhưng thê thảm nhất là kỷ niệm về Nguyễn Bính. Nguyên thời làm báo Trăm Hoa, nhà thơ được một cô gái trẻ đem lòng yêu, và sinh ra một bé gáiï tên là Hiền. Khi cháu mới bập bẹ, cô gái trả con lại cho Nguyễn Bính để đi bước nữa. Thế rồi một đêm mưa, Nguyễn Bính bế con ra dốc hàng Kèn và trao cho một người đàn ông qua đường nào đó. Oân lại chuyện cũ . Tô Hoài xót xa : “Bấm đốt ngón tay, đã trên ba mươi năm rồi. Ai là người đã đi qua ngã sáu oan nghiệt tối hôm ấy - nếu trời để cho được  sống, ông ấy cũng phải đến trong ngoài sáu bảy mươi rồi, nếu vẫn nhớ có người đưa cho một đứa trẻ, thế thì tên cháu là Hiền nhé…” Vâng tên cháu là Hiền, nhưng lẽ ra cần nói rõ, cháu là con gái của nhà thơ dân tộc : Nguyễn Bính.

“ Cát bụi chân ai” dù thế nào, vẫn còn chút lòng nhân hậu và sự trung thực trí thức của Tô Hoài. Chỉ tiếc nó được viết sau khi ông nhà văn đã rời bỏ cái ghế Chủ tịch Hội văn Nghệ Hà Nội, nơi ông đã ăn dầm nằm dề cả gần hai mươi năm nay. Giá như  ông chịu treo ấn từ quan sớm, chắc sự nghiệp của ông không chỉ  còn lại với thời gian  một “chú dế mèn”
21-4-04



               
                             

Tuesday, July 30, 2013

Nguyễn Hoàng Văn

Lịch sử của bệnh cuồng dịch


Nhà văn Chu Giang – Nguyễn Văn Lưu và những kẻ a tòng trong vụ đấu tố luận văn của Nhã Thuyên – Đỗ Thị Thoan nên tìm đọc công trình nghiên cứu History of Shit của Dominique Laporte.[1]

Họ cần đọc để may ra ngộ thêm, sáng thêm một vài điều. Họ cần đọc để hiểu rằng bất cứ thứ gì liên quan đến con người và cuộc sống, dù vĩ đại hay bé tý, dù thanh cao hay ghê tởm như là shit, sản phẩm của quá trình bài tiết, cũng đều đáng để nghiên cứu cả. Và họ cần đọc để hiểu rằng, chính họ, như những quân binh chỉ điểm và đấu tố, cũng rất đáng trở thành đối tượng nghiên cứu trong một công trình hàn lâm tương tự.

Trong cuốn sách History of Shit, Dominique Laporte đã nhìn lại lịch sử văn minh qua cách thức mà nhân loại ứng xử trách nhiệm với cặn bã bài tiết mà mình thải ra: theo từng thời kỳ, những thế cách ấy đã tăng tiến một cách phù hợp với những tiến trình văn minh khác, trong đó có tiến trình hình thành ý thức cái tôi, ý thức về con người cá nhân, đặc biệt là cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng. Nói cho gọn thì đây là sự phát triển của “văn hoá bài tiết”: càng ý thức về những tác động từ sự “bài tiết” của mình, nhân loại càng đường hoàng và chính trực hơn trong việc thể hiện trách nhiệm trước những đống bài tiết mình thải ra.

Từ chuyện bài tiết sinh học này, hãy nhìn đến sự bài tiết ý thức - tư tưởng của những hệ thống cầm quyền.

Sự sống là một tiến trình trao đổi chất ở đó từng hệ thống hấp thụ chất dinh dưỡng bên ngoài và thải hồi những cặn bã sau một tiến trình xử lý. Để sống thì hệ thống sinh học của từng cá nhân phải trao đổi chất qua tiến trình hô hấp, tiêu hoá và bài tiết. Và để sống, từng hệ thống cầm quyền phải tiến hành công viên tương tự về mặt ý thức và tư tưởng: “hô hấp” và “tiêu hoá” để hấp thụ những tư tưởng mới của thời đại và thải hồi cái đã lỗi thời.

Vấn đề cần nêu ra ở đây cũng là “văn hoá bài tiết” và nói theo ngôn ngữ tuyên giáo của hệ thống toàn trị là phải “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”. Nếu cá nhân không được phép vô trách nhiệm trước những thứ mà cơ thể mình bài tiết, thì hệ thống chính trị cũng không được dửng dưng trước những cặn bã nó thải ra. “Không được phép vô trách nhiệm” hay “dửng dưng” chỉ là một cách nói. Một cách bình dân, nôm na, có thể nói thẳng là “ỉa bậy” hay “ỉa vất”: cá nhân không được ỉa vất, chế độ cầm quyền không được ỉa vất.

Thế nhưng những bằng chứng lịch sử hiển nhiên lại cho thấy rằng cái hệ thống toàn trị hô hào “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” là một hệ thống chuyên ỉa vất, chuyên ứng xử vô trách nhiệm, luôn phủi tay trước những đống cặn bã mà nó thải ra. Nó ỉa bậy trên phương diện ý thức - tư tưởng đến độ, cho đến nay, sau gần ba phần tư thế kỷ, vẫn chưa chịu xây cho mình một cái hố xí hai ngăn.

Một thời, hệ thống toàn trị xây dựng sự sống còn của mình trên tư tưởng đấu tranh giai cấp cứng nhắc theo mô hình Stalinist hay Maoist mà hai thí dụ đau đớn nhất là phong trào đấu tố địa chủ trong cải cách ruộng đất vào thập niên 50, và phong trào đấu tố văn nghệ trong vụ Nhân Văn – Giai Phẩm vào thập niên 60. Nhưng để tiếp tục sống còn thì phải thải hồi những tư tưởng cứng nhắc ấy và, theo góc độ “văn minh bài tiết” mà Laporte đã chỉ ra, hệ thống toàn trị vẫn chưa đủ trưởng thành để bài tiết một cách đàng hoàng và tử tế trong tinh thần “dám chịu trách nhiệm”.

Nó nói nó không bao giờ “sai lầm” hay “ấu trĩ”, chỉ có “một thời sai lầm và ấu trĩ”! Nó nói nó không có lỗi, chỉ “lịch sử” và “thời đại” là có lỗi! Nó thải, nhưng không nhận đó là chất thải. Nó bài tiết, nhưng không dám vứt thẳng vào hầm tiêu. Không thừa nhận là chất thải, cũng không dám vứt vào hầm cầu, nó đã hiện nguyên hình là một hệ thống ỉa bậy.

Trở lại với câu chuyện Nhã Thuyên và công trình nghiên cứu về nhóm Mở Miệng. Lịch sử chắc chắn sẽ lập lại và một mai, khi quyền “Mở Miệng” được công nhận hay, ít ra, được đối xử công bằng và tử tế, cái chu kỳ ỉa bậy và “từng một thời ấu trĩ” kia cũng sẽ lập lại. Nó lập lại để những kẻ đang hăng hái lập công bằng cách chỉ điểm hay đấu tố sẽ kết thúc sinh mệnh văn nghệ hay “nghiên cứu” của mình tương tự sự nghiệp chỉ điểm và đấu tố của những bậc quân binh đi trước trong thập niên 50 và 60, những tên tuổi hiện đang trôi nổi trong đống chất thải vô thừa nhận của hệ thống toàn trị.

Có người gọi đoàn quân chỉ điểm và đấu tố ấy là những nhà “phê bình kiểm dịch” nhưng gọi vậy e không chính xác.[2] “Kiểm dịch” là để ngăn ngừa bệnh dịch. Còn những cây bút ấy, khi đã tự nguyện nhảy vào hàng ngũ của đống chất thải vô thừa nhận, thì đã là hiện thân của một thứ mầm dịch, thứ dịch đã và đang phá hoại sự phát triển bình thường của nền văn học nói riêng và của đất nước nói chung.[3]

Như thế, nếu có một dự án nghiên cứu toàn diện về hệ thống toàn trị, cần có một chương trình nghiên cứu đặc biệt, chuyên sâu về quá trình ỉa bậy của hệ thống, cái quá trình “không dám chịu trách nhiệm” với những cặn bã gây dịch mà nó liên tiếp thải ra. Nhìn lại lịch sử nhân loại qua lăng kính bài tiết, Laporte đã có công trình đặc sắc History of Shit, và chúng ta, nếu nhìn lại một chặng đường của đất nước trong phối cảnh riêng về chất thải mà hệ thống toàn trị đã bài tiết, chúng ta sẽ có gì?

Một History of Plague - Lịch sử của bệnh dịch chăng?

Từ History of Shit đến History of Plague: đáng gọi như thế lắm vì cái ổ dịch một thời của đất nước đang ngo ngoe sống lại, đang âm thầm truyền nhiễm và đang cố gây không khí khủng bố qua những hành động chỉ điểm và đấu tố một luận văn cao học.

30.7.2013
nguồn tiền vệ